
Tranh Đông Hồ Đàn Lợn Âm Dương. Ảnh: Phan Mạnh Dương
Ngày 9 tháng 12, tại Kỳ họp lần thứ 20 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể được tổ chức tại New Delhi (Ấn Độ), nghề làm tranh dân gian Đông Hồ của tỉnh Bắc Ninh đã chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Sự kiện này khẳng định giá trị độc đáo của một loại hình nghệ thuật dân gian lâu đời, đồng thời đánh dấu di sản văn hóa phi vật thể thứ 17 của Việt Nam được UNESCO vinh danh. Đây là một cột mốc quan trọng trong hành trình gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Những nỗ lực bảo tồn di sản văn hoá của Việt Nam

Ảnh: Phan Mạnh Dương
Việc ghi nhận nghề làm tranh Đông Hồ là di sản văn hoá phi vật thể là thành quả của quá trình phối hợp bền bỉ giữa Bộ Ngoại giao, Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, tỉnh Bắc Ninh cùng các bộ, ban, ngành liên quan, với sự đồng hành của cộng đồng và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Tinh thần hợp tác chân thành và tình yêu dành cho các giá trị truyền thống đã mở ra những chương tiếp nối cho câu chuyện di sản, nơi bảo tồn song hành với phát triển, và di sản tiếp tục được trao truyền, hiện diện sống động trong đời sống đương đại và các thế hệ tương lai.
Riêng trong năm 2025, Bộ Ngoại giao và Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và địa phương, vận động thành công 7 danh hiệu UNESCO, nâng tổng số danh hiệu của Việt Nam lên con số 77. Các danh hiệu này mang đậm dấu ấn quốc gia và được xem là tài sản chung của nhân loại, ngày càng được nhìn nhận như nguồn lực chiến lược, góp phần thúc đẩy du lịch, gia tăng sức hấp dẫn văn hóa và phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững trong thời gian dài hạn.

Ảnh: Phan Mạnh Dương
Việc hồ sơ đề cử “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” đạt được thành công là kết tinh của một quá trình chuẩn bị bài bản, bền bỉ và phối hợp chặt chẽ giữa nhiều chủ thể. Từ cộng đồng những người gìn giữ và truyền dạy nghề tại làng Đông Hồ, chính quyền tỉnh Bắc Ninh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đến các chuyên gia di sản trong và ngoài nước, tất cả đã cùng chung tay dưới sự điều phối xuyên suốt và hiệu quả của Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam trong từng bước xây dựng, hoàn thiện và vận động hồ sơ.
Hồ sơ được đánh giá cao nhờ chất lượng chuyên môn và tính thuyết phục, phản ánh rõ nét cam kết nghiêm túc của Việt Nam đối với công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể. Trọng tâm được đặt vào việc bảo đảm tính liên tục và tính xác thực của nghề truyền thống, đồng thời tôn vinh vai trò trung tâm của cộng đồng, những con người trực tiếp sáng tạo, lưu giữ và trao truyền di sản qua nhiều thế hệ. Chính cách tiếp cận ấy đã đưa nghề làm tranh dân gian Đông Hồ trở thành một câu chuyện di sản giàu chiều sâu, sống động và có khả năng tiếp nối tới tương lai.
Tranh Đông Hồ trong dòng chảy lịch sử dân tộc
Tranh dân gian Đông Hồ là một trong những tinh hoa tiêu biểu của văn hóa dân gian Việt Nam, gây ấn tượng bởi vẻ đẹp mộc mạc mà cuốn hút, từ màu sắc, bố cục đến khuôn hình giàu tính biểu trưng. Được tạo nên hoàn toàn từ những chất liệu tự nhiên, tranh Đông Hồ mang gam màu ấm áp, gần gũi, tạo nên một sắc thái thẩm mỹ rất riêng, gắn liền với đời sống và tâm hồn người Việt.
Dòng tranh này có xuất xứ từ làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trước kia, tranh chủ yếu được sản xuất để phục vụ dịp Tết Nguyên đán. Người dân mua tranh về dán trong nhà, hết năm lại thay tranh mới, như một nghi thức tinh thần gửi gắm ước vọng cho năm sắp tới. Chính vòng đời ngắn ngủi ấy lại khiến tranh Đông Hồ gắn bó mật thiết với nhịp sống nông thôn Bắc Bộ.

Nghệ nhân làm tranh Đông Hồ Nguyễn Đăng Chế. Ảnh: Phan Mạnh Dương
Nội dung tranh Đông Hồ phong phú và đa dạng, phản ánh gần như trọn vẹn đời sống lao động và tinh thần của người dân đất Việt. Những hình ảnh quen thuộc như chăn trâu thổi sáo, hứng dừa, đấu vật, đánh ghen tái hiện sinh hoạt đời thường với cái nhìn hóm hỉnh, sâu sắc. Bên cạnh đó là những bức tranh mang ý nghĩa chúc tụng, gửi gắm khát vọng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc như tranh Đám Cưới Chuột, Đàn Lợn Âm Dương, Lí Ngư Vọng Nguyệt. Tranh cũng đề cập đến tình cảm lứa đôi, gia đình và đạo lý xã hội bằng ngôn ngữ tạo hình giản dị mà giàu tính nhân văn.
Một trong những nét độc đáo làm nên giá trị của tranh Đông Hồ nằm ở chất liệu và màu sắc. Giấy in là giấy dó, được quét một lớp hồ điệp làm từ vỏ sò nghiền mịn, tạo nên bề mặt óng ánh đặc trưng. Màu sắc hoàn toàn lấy từ thiên nhiên như đen từ than lá tre, xanh từ lá chàm hay gỉ đồng, vàng từ hoa hòe, đỏ từ sỏi son, gỗ vang. Các màu cơ bản này không pha trộn, tạo nên vẻ đẹp trong trẻo, bền bỉ với thời gian.

Các nghệ nhân điêu khắc ván gỗ tranh Đông Hồ. Ảnh: Phan Mạnh Dương
Theo nội dung, tranh Đông Hồ được chia thành nhiều thể loại như tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh sinh hoạt. Quy trình làm tranh gồm nhiều công đoạn, trong đó quan trọng nhất là sáng tác mẫu, khắc ván và in tranh. Ván khắc được làm từ gỗ thị hoặc gỗ thừng mực, đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề cao, óc thẩm mỹ tinh tế và sự kiên nhẫn bền bỉ.
Về giá trị nghệ thuật, tranh Đông Hồ mang tính trang trí và biểu trưng rõ nét, song vẫn giữ được sự giản dị, dễ hiểu. Về nội dung, tranh phản ánh sâu sắc quan niệm thẩm mỹ và ước mơ ngàn đời của người lao động về một cuộc sống gia đình thuận hòa, xã hội công bằng, nhân ái.

Nghệ nhân Nguyễn Đăng Tâm. Ảnh: Phan Mạnh Dương
Ngày nay, nghề làm tranh Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ mai một khi số nghệ nhân còn lại rất ít, chủ yếu là các bậc cao niên. Theo thống kê gần đây, số lượng nghệ nhân hiện chỉ còn 3 người nhưng chỉ có 2 người còn khả năng truyền dạy đều đã cao tuổi (ông Nguyễn Hữu Sam, ông Nguyễn Đăng Chế).
Việc tranh Đông Hồ được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO là sự ghi nhận xứng đáng, đồng thời đặt ra kỳ vọng về việc bảo tồn và tiếp nối dòng tranh dân gian đặc sắc này như một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa Việt Nam.
DI SẢN VĂN HOÁ VIỆT NAM:
THEO DÒNG FESTIVAL THĂNG LONG HÀ NỘI VÀ NGÀY DI SẢN VĂN HOÁ VIỆT NAM, KHÁM PHÁ BẢO VẬT TIỀN TRIỀU CHỐN KINH KÌ
TRIỂN LÃM HẠT NỞ ĐỒNG HOA TRÂN QUÝ GIÁ TRỊ DI SẢN VIỆT
TRIỂN LÃM TRANH CỦA VUA HÀM NGHI: HÀNH TRÌNH HỒI HƯƠNG DI SẢN
Harper’s Bazaar Việt Nam



