Cristoforo Borri, một giáo sỹ người Ý sống tại vùng Thuận Hóa và Quảng Nam của xứ Đàng Trong từ năm 1618 đến năm 1623 đã nhận xét rằng: Tuy Việt Nam có thời tiết khá nóng nhưng người Việt ăn mặc kín đáo nhất trong các dân tộc trong vùng. Nhìn lại lịch sử áo dài Việt Nam mới thấy. Các cụ ngày xưa ắt hẳn đã tốn nhiều thời gian nghiên cứu các cách phối hợp những nguyên tắc thẩm mỹ cùng với quy luật kín đáo cố hữu của dân tộc vào việc may mặc.
Người xưa nhận thấy cổ của người Việt không được cao. Vì vậy họ đã may cổ áo thấp xuống và ôm sát cổ. Trong khi tóc được vấn cao để lộ gáy. Cách may này giúp phụ nữ Việt Nam dù có chiều cao trung bình vẫn trở nên thanh tú và cao, sang hơn.
Người Việt xưa gọi áo dài là Tập phục. Nghĩa là loại áo được mặc với nhiều lớp hay còn gọi nôm na là áo mớ ba mớ bẩy. Trong đám mớ ba, mớ bẩy đó, lớp áo dài bên ngoài lại được người xưa gọi là áo lót. Vì thật ra nó chỉ là lớp lót trong của áo bào, với lớp xiêm độn ở giữa. Trong sách Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ có viết về việc các cụ sứ thần nước ta khoác “áo lót” (Tập phục) ra đón tiếp quan khách ngoại giao của các nước đến thăm. Ai không hiểu lại thấy xấu hổ rồi cho rằng người mình ngày xưa khiếm nhã.
Áo dài tứ thân và áo dài năm thân đến từ ảnh hưởng Hán phục
Có hai loại áo dài luôn đi song song với nhau từ xưa đến nay. Đó là áo dài tứ thân và áo dài năm thân.
ÁO DÀI TỨ THÂN
Áo dài tứ thân có 2 vạt trước mở dọc thẳng từ cổ xuống đến gấu. Cổ áo tứ thân rất thấp, gần như không có. Loại áo này đã có từ thời Hán bên Trung Quốc và trở nên phổ biến từ thời Đường. Áo tứ thân được biết đến như áo chẽn tay khoác ngoài cùng với tay ngắn hay dài; gọi là đoản tụ hay trường tụ tỷ giáp.
Cách đây gần nửa thế kỷ, áo dài tứ thân vẫn được phái nữ vùng thôn quê Bắc bộ mặc hàng ngày. Các sư sãi Phật giáo Việt Nam hiện vẫn mặc loại áo tứ thân với cổ nhật bình này.
ÁO NĂM THÂN
Áo năm thân, tức là áo dài với cổ xây (cổ đứng) cài nút sang bên phải như chiếc áo dài ngày nay. Chưa ai có thể khẳng định được áo dài năm thân của Việt Nam xuất hiện từ bao giờ. Tuy nhiên, pho tượng Ngọc nữ từ thế kỷ 17 hiện ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh cho thấy ít nhất ở thời đó, phụ nữ Việt cũng đã mặc loại áo dài có hình dáng của cái áo dài năm thân (mà sau thành ba thân, rồi ngày nay là hai thân).
Thi thoảng hoặc mới thấy một vài chi tiết liên quan đến áo dài trong các sách lịch sử viết về trang phục Việt. Có giả thuyết cho rằng chiếc áo dài Việt Nam có xuất xứ từ phương Bắc. Khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong lên ngôi vua năm 1744. Ông đã bắt quan dân Thuận Quảng mặc lễ phục lấy mẫu từ sách Tam tài đồ hội của nhà Minh, Trung Quốc.
Nói thêm rằng, mặc dù phải chấp nhận việc triều cống nhà Thanh, nhưng người Việt lúc nào cũng coi người Mãn Châu là giống di địch, không phải chính thống Hán tộc. Vì thế triều phục và lễ phục của các triều đại Lê, Nguyễn Việt Nam vẫn theo mẫu của trang phục Hán tộc của triều Minh, Trung Quốc.
Đặt câu hỏi: Áo dài có phải là lễ phục?
Áo dài chỉ là một loại thường phục trang trọng có thể mặc để tiếp khách; hoặc đi ra đường. Những dịp lễ lạc, người xưa phải khoác ra ngoài áo dài một cái áo rộng (phổ phục) như áo tấc, áo dấu, áo tràng ngoài dân gian; hoặc áo bào, áo mệnh phụ trong triều. Chỉ có các lễ phục này mới mang ảnh hưởng của phương Bắc.
Trong khi đó, từ đầu đến cuối quyển sách Trung Quốc phục trang sử nổi tiếng. Sách viết và minh họa về y phục Trung Hoa từ đời Xuân Thu cho tới những năm đầu Dân Quốc (477 trước Công Nguyên đến thập kỷ 1920 sau Công Nguyên); không thấy đả động gì đến bì bào; tức là loại trang phục ôm sát người như áo dài của người Việt.
Loại bì bào độc nhất có cổ cao, cài nút bên phải dành cho phụ nữ ở Trung Quốc mà ngày nay thường gọi là trường sam (theo tiếng Quảng Đông là sườn xám / xường xám), có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện từ Trùng Khánh và Thượng Hải ở thập niên 1920. Sườn xám trở nên nổi tiếng nhờ bà Tống Mỹ Linh, vợ Thống chế Tưởng Giới Thạch.
Giới sành trang phục thế giới Âu, Mỹ thường cho rằng sườn xám Trung Hoa và áo dài Việt có nhiều nét tương đồng. Cũng nên để ý rằng phụ nữ một số dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam cũng mặc loại áo tương tự áo dài dưới đồng bằng. Trong khi những người cùng dân tộc ấy ở các nước xung quanh lại không thấy mặc loại áo này.
Đến năm 1776, sau khi quân đội của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chiếm được kinh đô Phú Xuân của xứ Đàng Trong. Quan Hiệp trấn thủ Lê Quý Đôn của nhà Trịnh ra lệnh cho dân phải thay đổi lề lối ăn mặc theo tục lệ cũ. Nghĩa là giống như các trang phục của Đàng Ngoài thời bấy giờ; cũng như ở Đàng Trong trước biến đổi thời 1744. Theo lệnh này, về thường phục: “Từ nay trở đi, đàn ông và đàn bà chỉ được mặc loại áo ngắn tay với cổ đứng.” Ngắn tay nghĩa là tay áo chỉ dài đến cổ tay thay vì dài gấp đôi chiều dài tay như trong áo lễ.
Lịch sử áo dài người Việt bắt nguồn từ thế kỷ 17
Trong quyển sách Relation de la Nouvelle Mission des Peres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine, xuất bản tại Lille năm 1631. Giáo sĩ Christoforo Borri đã tả rõ cách ăn mặc của người Việt đầu thế kỷ 17:
“Người ta mặc năm, sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên áo kia, mỗi cái một màu. Cái thứ nhất dài đến mắt cá chân một cách trang trọng. Rồi những áo khác bên ngoài ngắn dần”.
Có lẽ vị giáo sĩ này muốn nói đến cách mặc áo mớ ba, mớ bảy của phụ nữ Việt hiện còn thấy ở các làng Quan họ ở Bắc Ninh, Bắc Giang; hay lác đác ở Huế cách đây khoảng hơn nửa thế kỷ.
“Đàn ông cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa. Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông rất đẹp mắt. Mỗi khi có làn gió thổi thì các dải đó lại bay tung lên như cánh chim công thật ngoạn mục… Đàn ông Việt thời đó cũng để tóc dài và vấn khăn như đàn bà”.
Các lớp áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên dưới thắt lưng mà Giáo sĩ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen nghê thường. Hoặc có nơi gọi là quầy bơi chèo, mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Người Huế gọi là áo lá tua. Xiêm này có ba hoặc bốn lớp dải lụa may chồng lên nhau. Lớp dải trong cùng dài nhất, rồi các lớp bên ngoài ngắn dần. Các dải này ngày nay được đơn giản hóa bằng cách may thưa; nhỏ hơn, và dính liền ba bốn lớp với nhau.
Thỉnh thoảng vẫn thấy trang phục này mỗi dịp rước đình ở thôn quê miền Bắc, miền Trung Việt Nam, và trong phục trang múa cung đình ở Huế. Bức tượng Ngọc nữ tạc từ thế kỷ 17 ở chùa Dâu là minh chứng rõ nhất cho áo dài, các dải cánh sen lẫn cách vấn khăn mà giáo sĩ Borri đã mục diện từ bốn thế kỷ trước. Chiếc áo dài cũng như cách vấn khăn của bức tượng từ thời ấy cũng không khác gì bây giờ.
Giáo sĩ Borri cũng đề cập đến chiếc áo màu sậm của nam giới và sĩ tử lúc ấy tương tự như áo ngoài của các giáo sĩ đạo Công giáo thời bấy giờ. Nghĩa là giống chiếc áo dài năm thân của thời đại về sau này. Ông cho biết phần lớn đàn ông Việt đầu thế kỷ 17, nhất là giới sĩ tử đều mặc một cái áo dài lụa màu đen phủ ra ngoài các áo khác.
Năm 1819, khi thuyền trưởng Mỹ John White đến thăm Sài Gòn, cách ăn mặc ở đây vẫn giống như giáo sĩ Borri đã thấy ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó. Ông White có nhắc đến một thiếu nữ 16 tuổi mặc quần lụa đen và áo may sát người dài đến mắt cá chân.
Ông cũng cho biết rằng đàn ông và phụ nữ Sài Gòn khi ấy ăn mặc giống nhau, với nhiều lớp áo dài khác màu. Chiếc áo trong cùng dài đến mắt cá chân, rồi các áo ngoài ngắn dần… Tuy nhiên, giống như bây giờ, lối ăn mặc kể trên chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu. Còn phục trang của đại đa số người dân thì trang nghiêm hơn với màu sậm.
Lịch sử áo dài Việt thế kỷ 20
Đầu thế kỷ 20
Đầu thế kỷ 20, đại đa số áo dài phụ nữ thành thị ở Việt Nam đều may theo thể năm thân, hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải tốt như lụa, sa, gấm, đoạn… ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40cm.
Cổ, tay và thân trên áo dài phụ nữ thời ấy thường ôm theo người, tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chít eo. Vạt rất rộng, trung bình là 80cm ở gấu áo. Gấu vạt trước áo được cắt dài hơn vạt sau, và được may võng để phần giữa gấu không bị thụng và ngực áo kéo vòng lên khi mặc. Cổ áo chỉ cao khoảng 2cm cho phái nữ, và 3 đến 4cm cho nam giới.
Nhưng phụ nữ Huế vẫn giữ cổ áo của họ cao khoảng 3 cm. Riêng ở miền Bắc từ thập niên 1910 – 1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết phụ độ 3cm bên phải cổ áo và cài khuy cổ lệch. Cổ áo lệch sẽ hở ra tạo vẻ quyến rũ hơn, và cũng để khoe chuỗi hột trang sức quấn nhiều vòng quanh cổ, bên trong cổ áo.
Thời ấy, các vải áo màu đậm được dùng nhiều nhất. Mùa Thu, Đông dùng các loại gấm, đoạn. Xuân, Hạ dùng sa, vân. Vì màu nhuộm lấy từ chất liệu thiên nhiên của các loại vải dễ phai, vì thế người xưa không giặt các áo dài may bằng vải đắt tiền, thường dùng làm áo ngoài. Những chiếc áo này chỉ được phơi nắng một năm vài lần rồi ướp hương thơm bằng trầm hay hương bài trong tráp gỗ. Đa số áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may một lớp vải lót dính liền bên trong. Nhất là khi áo được may bằng vải mỏng cho kín đáo.
Áo kép này được mặc khoác lên áo dài thứ hai lót bên trong. Lớp áo lót bên trong thấm mồ hôi, vì thế được may bằng vải trắng để không sợ bị phai màu và dễ giặt. Hai lớp áo dài mặc cùng với cái áo cánh ở trong cùng tạo thành một bộ áo mớ ba.
Quần mặc cùng áo dài may rộng vừa phải, trên 30cm với đũng thấp. Thời đó, phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế, cả nam lẫn nữ, hay mặc loại quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ xòe rộng thêm.
Thập niên 1930 – 1940: Xuất hiện áo dài cách tân
Cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều ở thập niên này với các thập niên trước. Phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập về từ châu Âu. Cho đến thời điểm này, gấu áo dài nữ thường được may trên mắt cá khoảng 20cm. Trong khi từ cổ chí kim, vạt áo dài nam giới vẫn chỉ không dài quá đầu gối 10cm.
Khắp nơi, thiếu nữ mặc quần trắng với áo dài. Quần đen dành cho phụ nữ đã lập gia đình. Tuy nhiên, phần lớn phái nữ thuộc mọi lứa tuổi ở Huế vẫn tiếp tục chỉ mặc quần trắng.
Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng họ gần như chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được khổ rộng hơn. Phần tay áo vẫn may nối. Các họa sỹ Lê Phổ và Lê Thị Lựu đi tiên phong trong việc bỏ sống nối dọc giữa thân áo, thu gọn bớt chiều rộng của vạt áo và tay áo.
Áo dài ba thân bắt đầu từ đây. Nhưng nổi nhất lúc ấy là họa sỹ Cát Tường ở phố Hàng Da, Hà Nội. Trong những năm cuối của thập niên 1930, Cát Tường tung ra các kiểu áo dài được ông Âu hóa, cả về kiểu dáng lẫn tên gọi. Lịch sử áo dài gọi đó chính là áo dài Le Mur (do ông tự dịch tên của mình ra tiếng Pháp).
Áo Lemur vẫn giữ nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới. Nhưng cổ áo khoét hình trái tim với mũi nhọn đằng trước ngực hay sau lưng. Và một cái nơ đính vào chỗ khoét nhọn đó. Có khi áo được gắn thêm cổ bẻ. Vai áo may phồng, tay nối ở vai; và cũng có khi áo dài Le Mur khoét hở đến giữa lưng và không có tay. Khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Quần của áo dài Le Mur cắt ống loe rộng. Trong bài báo đăng trên báo Phong Hóa năm 1938. Họa sỹ Cát Tường cổ xúy việc phế bỏ cái cổ xây của áo dài.
Ông cho rằng dù theo phong tục thì cổ phải che dấu. Nhưng cái cổ áo dài nhỏ thế kia thì che được gì, mà lại vướng víu. Và tay áo cũng nên được cắt bỏ vì lý do tương tự. Vì thế mà áo dài Le Mur bị xem là táo bạo; chỉ có giới nghệ sỹ thời thượng mới dám mặc. Cũng vì những tranh cãi đó mà áo dài Cát Tường đã tạo tiếng vang lớn. Nhưng chỉ đến khoảng năm 1945–47 thì loại áo này đã dần đi vào thất sủng.
Thập niên 1950 – 1960: Tà áo dài Tây hóa với những chi tiết tôn vóc dáng thắt đáy lưng ong
Đến thập niên 1950, sườn áo dài được may có eo dù vẫn không xếp li. Các thợ may lúc ấy đã khôn khéo cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau hơi rộng hơn thân áo trước, nhất là ở phần mông, để áo ôm theo dáng người mà không cần chít li ở eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong, tức là thân áo thứ ba, hay còn gọi là vạt hò; được cắt ngắn dần từ giai đoạn ấy. Cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu được hạ thấp xuống. Áo dài thời này cho đến đầu thập niên 1960 tà phải ôm; không hở quần thì mới được cho là may khéo.
Áo dài thay đổi nhiều nhất những năm 1960. Vì nịt ngực ngày càng phổ biến nên áo dài được may chiết eo, tôn dáng ngực. Eo áo được cắt cao lên hở cạp quần. Gấu áo lúc này vì hẹp cho nên được cắt thẳng ngang và may dài gần đến mắt cá chân. Nhiều phụ nữ miền Nam lúc ấy còn dùng dây gai quấn quanh bụng. Và xiết bụng lại cho nhỏ để mặc áo dài chít eo lưng ong.
Gần cuối thập kỷ 1960, để theo đúng thời trang váy ngắn quần loe của phong trào Hippy. Áo dài mini của nữ giới trở thành thời thượng. Vạt áo được may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối. Áo may rộng hơn, lúc ban đầu có xếp li ở eo. Nhưng các nhà thiết kế lúc đó thấy áo dài vạt ngắn có chít li trông cũn cỡn phản mỹ thuật. Cho nên chỉ một thời gian sau áo dài mini không chít eo nữa. Nhưng vẫn giữ đường lượn một cách tương đối theo cơ thể. Cổ áo thấp xuống còn 3 cm. Tay áo cũng được may rộng ra và ngắn hơn.
Đặc biệt trong khoảng gần cuối thập kỷ 1960, vai áo dài phụ nữ bắt đầu được cắt lối raglan để vai áo ôm hơn; ít nhăn mà lại đỡ tốn vải. Tay áo dài từ đây được nối với thân từ vai chéo. Trong khi đó áo dài phái nam vẫn luôn giữ cách nối tay cổ điển để vai áo vuông vức, nam tính hơn.
Thập niên 1970 đến nay: Lịch sử áo dài không thay đổi nhiều lắm
Thỉnh thoảng cách mặc có đổi mới; như quần với áo đồng màu; nhưng không tạo ra được phong trào nào sâu đậm. Các nhà tạo mẫu áo dài bây giờ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi để đưa ra mẫu mới. Nhưng phần đông chỉ đi tìm cái gì cho khác người; hoành tráng; “không đụng hàng”; mà thường quên đi tính thẩm mỹ và sự tôn tạo nhân dáng tế nhị. Đó là những yếu tố tạo ra phần hồn thiết yếu làm cho áo dài nổi tiếng bao lâu nay.
Áo dài trông đơn giản thế, nhưng muốn biến đổi nó thêm về hình thức sẽ rất khó. Vì nó đã được hoàn thiện từ lâu lắm rồi.
VĂN HÓA TÂY PHƯƠNG ĐÃ CÁCH TÂN TÀ ÁO DÀI NHƯ THẾ NÀO?
CẨM NANG CHỌN KIỂU TÓC KHI DIỆN ÁO DÀI TẾT: 6 KIỂU TÓC ĐÀI CÁC NHẤT
Bài: Nhà nghiên cứu Trịnh Bách. Hiệu đính: Phạm Trung
Tạp chí thời trang Harper’s Bazaar Việt Nam