Mỗi dịp xuân về, họa tiết hoa lại nở rộ trên váy áo người yêu thời trang. Tuy nhiên, bạn có biết rằng đây vốn là một họa tiết dành riêng cho giới quý tộc? Nó chỉ trở nên phổ biến trong hai thế kỷ gần đây nhờ vào kỹ thuật in ấn công nghiệp hiện đại. Hãy cùng Harper’s Bazaar tìm hiểu lịch sử họa tiết hoa đầy lý thú.
Tình yêu dành cho hoa từ thuở sơ khai của con người
Có gì đó thật lãng mạn về hoa. Chẳng vì vậy mà người Ai Cập cổ đại đã chú trọng đến việc cắm hoa. Họ làm nên những vòng hoa, lẵng hoa, và bó hoa cỡ đại cho những sự kiện trang trọng. Do khí hậu Ai Cập khắc nghiệt, hoa tươi luôn là vật trang trí dành riêng cho hoàng gia, giới quý tộc và gia đình giàu có.
Người Hy Lạp và La Mã cổ đại sử dụng hoa để trang trí cho bản thân. Thời điểm này xuất hiện các loại vòng nguyệt quế đội đầu, hoa cài tóc và vòng đeo cổ tết từ hoa tươi. Vì dùng hoa như phụ kiện nên họ ưa thích những loài hoa có hương thơm ngát, như tulip, hoa hồng và lily.
Lịch sử họa tiết hoa bắt đầu từ niên đại này, khi hình ảnh hoa được cách điệu và đưa vào tranh ảnh của Ai Cập, Hy Lạp, La Mã cổ đại.
Châu Á, cái nôi khai sinh họa tiết hoa trong lịch sử thời trang
Ít ai biết rằng: Họa tiết hoa lần đầu tiên xuất hiện trên vải vóc là ở châu Á. Chính xác là Trung Quốc, từ thời nhà Đường (năm 619 – 907 sau Công Nguyên).
Lịch sử họa tiết hoa trong thời trang Trung Quốc cổ đại
Thời bấy giờ, không có kỹ thuật in ấn hiện đại, nên hoa phải được thêu tay lên trang phục. Chính vì vậy mà ở Trung Quốc phong kiến, họa tiết hoa luôn dành riêng cho hoàng thân quốc thích. Chỉ có họ mới có đủ tiền chi trả cho hàng trăm nghệ nhân ngồi thêu tỉ mỉ.
Những môtíp hoa được yêu thích trong văn hóa Trung Quốc gồm tứ quân tử (mai lan trúc cúc), mẫu đơn và liên hoa (sen). Không chỉ vì chúng đẹp mà còn vì ý nghĩa cao cả.
Mẫu đơn tượng trưng cho sự giàu sang và quý phái. Sen đại diện cho sự thuần khiết khi “gần bùn mà chẳng hôi thanh mùi bùn”. Mai lan trúc cúc ám chỉ bốn mùa xuân hạ thu đông, cũng như bốn đức tính cần có của người quân tử.
Lịch sử họa tiết hoa của Nhật Bản
Qua đến Nhật, quốc gia này lại đặc biệt ưa chuộng hình ảnh hoa cúc. Hình ảnh cánh hoa thon dài, toả ra bốn phương trông giống với mặt trời, quốc huy của Nhật Bản.
Nghệ nhân Nhật Bản cũng tìm ra công nghệ nhuộm vải và in khắc gỗ. Vì vậy mà nhiều chiếc kimono cổ của Nhật đã sớm xuất hiện môtíp họa tiết hoa được in với kỹ thuật truyền thống như katazome, shibori và e-gasuri.
Họa tiết hoa từ châu Á lan tỏa đến châu Âu
Lần đầu tiên vải vóc họa tiết hoa xuất hiện tại châu Âu là vào thời Trung Cổ, khi thương lái châu Âu lần đầu tiên đặt chân được đến châu Á.
Khi họ trông thấy những thước vải in và thêu hoa, các lái buôn đã ngay lập tức nhìn thấy cơ hội làm giàu. Họ ngay lập tức nhập khẩu chúng vào châu Âu. Quá trình chuyên chở gian truân và mất nhiều thời gian, nên khi được mang về châu Âu, những loại vải vóc này có giá trên trời. Chính vì vậy, trong lịch sử châu Âu phong kiến, họa tiết hoa cũng là thứ dành riêng cho giới quý tộc và nhà giàu.
Trên con đường di chuyển giữa châu Á và châu Âu, vải vóc thêu hoa đến với đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Nghệ nhân Ottoman đã tìm cách sản xuất loại môtíp hoa, vừa để bán sang châu Âu, vừa để làm thỏa mãn nhu cầu trong nước. Họ đã thành công trong việc dệt vải nhung mang môtíp hoa. Vì có khung dệt nên họ có thể làm nên những tấm vải lớn, nhưng bù lại không thể tạo chi tiết đa sắc cầu kỳ như lụa thêu tay của châu Á. Vải hoa Ottoman thời kỳ này chủ yếu dệt những loài hoa ôn đới, như lily và hoa hồng.
Châu Âu tự sản xuất vải vóc có môtíp hoa
Vào thế kỷ 15, các nghệ nhân ở Ý đã mày mò cách tự dệt vải vóc in hoa của mình khi mô phỏng những thuớc vải từ đế chế Ottoman. Vải brocade tại Ý thường xuất hiện môtíp nho, lựu và dây tầm xuân. Tuy nhiên, họ còn có một sáng kiến khác: ren hoa.
Kỹ thuật đan ren tiên ra đời tại Ý vào thời kỳ Phục Hưng, tầm thế kỷ thứ 16. Mong muốn của người dân là tạo nên chút gì đó xinh xắn để trang trí viền của những tấm vải trơn. Những tác phẩm ren cầu kỳ nhất đến từ Venice, Ý. Họ cất kỹ bí quyết tạo hình những loại ren cầu kỳ nhất, để đảm bảo không bị ăn cắp bởi những khu vực lân cận. Ren Ý trở thành một sản phẩm xuất khẩu thượng thừa của quốc gia này.
>>> Xem thêm: REN, CHẤT LIỆU MANG NGUỒN GỐC QUÝ TỘC
Song song với Ý, Pháp cũng tìm cách cải thiện ngành dệt may của mình. Ông hoàng mặt trời Louis XIV không muốn đất nước của mình phụ thuộc vào việc nhập khẩu vải từ Ý. Nên ông đã ép buộc thành phố Lyon, từ địa điểm nhập khẩu vải, thành trung tâm dệt may của Pháp.
Xuất hiện vải in họa tiết hoa, thay vì thêu hay dệt
Vào thế kỷ 17, khi các thương lái người Bồ Đào Nha và Hà Lan tìm đến Ấn Độ, họ phát hiện ra vải chintz. Đây là chất liệu cotton được in môtíp hoa đều tăm tắp nhờ kỹ thuật in khắc gỗ (wood block printing). Ở Ấn Độ, chintz là loại vải chuyên dụng để trang trí nhà cửa, như làm chăn màn, gối và khăn trải bàn. Nhưng khi sang đến châu Âu, nó lại được ưa chuộng để làm váy đầm.
Sự tinh tế của chintz khiến người yêu thời trang châu Âu chi bạc trắng để mua nó. Cả Anh lẫn Pháp đều cấm nhập khẩu vải hoa chintz trong một thời gian dài, để bảo vệ ngành dệt may địa phương. Mãi đến cuối thế kỷ 18, các nhà sản xuất tại Anh mới tìm ra cách in ấn vải môtíp hoa. Từ đấy, chất liệu in hoa, đặc biệt là họa tiết hoa nhí, trở nên đủ rẻ tiền để thậm chí tầng lớp lao động cũng có thể mua nó.
Thế kỷ 19 phát triển ngôn ngữ loài hoa
Vào thế kỷ 19, không còn quá nhiều sự đổi mới liên quan đến thiết kế hay kỹ thuật làm vải môtíp họa tiết hoa. Nhưng đây lại là giai đoạn của trào lưu lãng mạn (Romanticism).
Dưới sự cai trị của nữ hoàng Victoria, xã hội Anh Quốc phát triển mạnh mẽ nhưng đồng thời gò bó quyền phụ nữ. Phái nữ bị ép buộc phải ở nhà và tập trung cho tay nghề nữ công gia chánh. Sự tiếp xúc giữa nam nữ trở thành điều tối kỵ.
Trong hoàn cảnh này, hoa trở thành một cách để bày tỏ nỗi lòng thầm kín giữa những người yêu nhau. Có hẳn những cuốn từ điển diễn giải cho ngôn ngữ của loài hoa. Ví dụ, hoa thủy tiên chứng tỏ cho lòng hào hiệp. Lan nam phi (freesia) tượng trưng cho tình yêu sự tự do. Hoa dành dành (gardenia) biểu hiện niềm vui, còn diên vỹ (iris) hàm ý cảm hứng dào dạt trong nghệ thuật. Dựa trên “thông điệp mật” này, các cặp đôi tặng nhau hoa cài áo hay bó hoa nhỏ cầm tay, gọi là nosegays/ tussie-mussies.
Thế kỷ 20: Nghệ thuật và họa tiết hoa
Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, có hai trào lưu nghệ thuật chú trọng vào hoa: trường phái Ấn tượng (Impressionism) và Tân nghệ thuật (Art Nouveau).
Những họa sỹ đi theo hai trường phái này cũng đặc biệt hứng thú với tranh ảnh và vật phẩm từ châu Á. Họ bị ấn tượng bởi họa tiết hoa trong những bức bình phong Trung Quốc và kimono Nhật Bản. Khi những vật phẩm này xuất hiện trong tranh sơn dầu Impressionist hay poster in khắc gỗ Art Nouveau, chúng khiến người dân châu Âu mê mẩn trước vẻ đẹp khác biệt của Á Đông.
Sự quyến rũ của họa tiết Á Đông một lần nữa trỗi dậy ở phương Tây. Các quý nữ đua nhau tìm mua kimono để mặc nhà, hoặc may trang phục từ vải hoa Á Đông. Niềm đam mê này kéo dài hơn 100 năm, cho đến tận Thế Chiến II.
Cuối thế kỷ 21: Họa tiết hoa biến hóa đa dạng
Nói đến họa tiết hoa trong thế kỷ 20, không thể không nhắc đến những thập niên gần cuối thế kỷ.
Thập niên 1960, dân hippie lăng-xê lối sống hướng về thiên nhiên, tự do tự tại. Họa tiết hoa trở nên tương đồng với phong cách sống hippie, khi xuất hiện trong khăn cài đầu, khăn quàng, quần áo và thậm chí là giày dép.
Qua đến thập niên 1970, họa tiết hoa trở nên nhu mì hơn, với màu sắc thanh nhã và lãng mạn. Còn họa tiết hoa của thập niên 1980 lại rực rỡ đậm chất nhiệt đới.
Ngày nay, họa tiết hoa đã trở thành một phần thường nhật của thời trang. Những công nghệ in ấn mới giúp mang lại nhiều kiểu họa tiết cầu kỳ và sắc nét hơn bao giờ hết.
Tạp chí thời trang Harper’s Bazaar Việt Nam