Lệ Hằng Lizeroux, người phụ nữ biểu tượng của ngành dầu khí Việt

“Làm từ thiện giống như lập quỹ tiết kiệm cho cuộc đời mình. Hãy đem lại niềm vui cho mọi người... Trong lúc hành động, sẽ có lúc bạn không thành. Nhưng khi làm những chuyện đạo đức, bạn chỉ té ngồi, chứ không té ngửa”, là triết lý của chị

Chị Lệ Hằng Lizeroux yêu âm nhạc. Chị có giọng ca rất hay và bản thân cũng đã sáng tác nhiều bài thơ và ca khúc

Một sáng tháng Tám, tôi đến thăm chị Lệ Hằng Lizeroux, người phụ nữ được giới doanh nhân Việt Nam kính trọng. Chị là người phụ nữ đầu tiên mà tôi nghĩ đến ngay khi bắt tay thực hiện chuyên đề The Icon Issue – tôn vinh những phụ nữ biểu tượng – trong Harper’s Bazaar kỳ này.

Căn hộ của chị chan hòa ánh sáng. Vừa bước vào, tôi choáng ngợp trước không gian trưng bày hàng trăm pho tượng lớn nhỏ. Ở đó, có những vũ công ballet mềm mại của Richard MacDonald, những khối điêu khắc đầy sức mạnh của Daniel K. Winn – một nghệ sĩ Mỹ gốc Việt. Nghệ thuật như một mạch ngầm, hiện diện trong mọi ngóc ngách của căn nhà.

Chị xuất hiện trong chiếc váy trắng in hoa đỏ rực rỡ. Từ chị tỏa ra một thứ hào quang khó gọi tên. Tôi đùa: “Chị đi dạ tiệc hay sao mà mặc đẹp thế?” Chị cười: “Không, đối với chị, luôn phải ăn mặc trang trọng. Chị thích màu sắc tươi vui”. Chúng tôi ngồi xuống sofa bên cửa sổ, và câu chuyện bắt đầu.

Ký ức quê hương và giọt nước mắt khi trở về

Chị kể, thuở nhỏ học trường Nazareth ở Đà Lạt, chị thường làm “leader” trong cộng đồng bạn bè và đã rất thích làm từ thiện. Học trường Tây, chị không biết nhiều tiếng Việt, thậm chí chẳng phân biệt được sắc, hỏi, ngã. “Hồi nhỏ, mẹ hay bảo chị lấy báo đọc cho mẹ nghe. Chị cứ đọc mà không có dấu. Vậy mà tiếng Việt cũng thấm dần. Giờ chị còn có thể làm thơ tự do bằng tiếng Việt nữa”, chị tự hào khoe.

Năm 1973, chị sang Pháp học nghệ thuật, rồi sang Mỹ năm 1978 học kinh doanh. Chị lấy chồng, vừa đi làm, vừa nuôi con. Năm 1992, gia đình quyết định trở về Việt Nam. Lần đầu tiên sau bao năm xa quê, vừa bước xuống sân bay Tân Sơn Nhất, đôi mắt chị đã nhòe đi: “Khi bước xuống máy bay, mình nhìn thấy quê mình nghèo. Thương lắm. Thấy người Việt mình nghèo quá”.

Rồi về quê thăm ông ngoại, chị nghe bài hát Quê hương với ca từ “Quê hương là chùm khế ngọt…” mà thấy nghẹn ngào. “Cứ nghe bài hát là khóc, kỳ lắm. Nhưng thấm thía lắm”.

Ký ức tuổi thơ theo mẹ đi làm từ thiện – xây chợ, dựng trường, cất cô nhi viện – đã ngấm sâu vào tâm trí. Chính những trải nghiệm tuổi thơ ấy, cùng hình ảnh những người mẹ Việt Nam anh hùng mà chị gặp trong một chuyến đi thăm Củ Chi, đã khiến chị quyết tâm: “Không chỉ đi tặng quà, chị muốn làm được điều gì đó cho đất nước”.

Chị bảo chị may mắn đã được gặp những vị lãnh đạo Việt Nam tâm huyết như bác Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Phạm Quang Dự. Tất cả các bác đều có lý tưởng lớn, mong cho đất nước được phát triển. Và chính họ đã truyền cho chị cảm hứng cũng như một ý chí mạnh mẽ: “Mình phải làm gì đó để cống hiến cho đất nước”.

Cơ duyên đến với ngành dầu khí của chị Lệ Hằng Lizeroux

Chị thừa nhận khi về thăm Việt Nam lần đầu tiên, chị không có ý định kinh doanh. Thế nhưng, có nhiều sự tình cờ diễn ra đã đưa đẩy chị bắt tay vào con đường này.

Nhận ra tiềm năng của ngành dầu khí ở Việt Nam, chị suy nghĩ:

“Mấy công ty nước ngoài có thể đấu thầu giếng dầu tại Việt Nam, tại sao mình không làm thử? Thế là chị lên kế hoạch đi tìm đối tác đầu tư.

Đi tìm khổ lắm. Hãng lớn thì không thèm tiếp mình. Còn hãng nhỏ thì bảo khi nào có thông tin gì cụ thể thì cứ đưa ra để chứng minh, lúc đó chúng tôi sẽ cân nhắc…

Tụi chị đi tìm mua số liệu địa chất địa tầng, đưa cho kỹ sư phân tích xem số liệu có đúng không. Muốn mua những thông tin này thì phải bỏ ra từ 250.000 cho tới 300.000 USD. Số tiền này là rất lớn đối với chị lúc ấy, nhưng phải cố bỏ ra để chứng minh cho nhà đầu tư nước ngoài biết mình tin vào dự án của mình”.

Mười năm chờ đợi những giọt dầu

Năm 1992, chị bắt đầu nhận giếng để khai thác. Nhưng giếng thứ nhất khô, giếng thứ hai cũng khô. “Mười năm trời, khổ lắm em. Đối tác gây lộn nhau, có khi cả tháng không nhìn mặt nhau. Chị buồn đến mức muốn đi tu”.

Chị đi Tây Tạng. Lúc ấy chị mới 43 tuổi. “Hai mươi, ba mươi năm trước đi Tây Tạng khó lắm. Chị là phụ nữ duy nhất và phải đi chung với một nhóm các nhà khoa học. Ngủ là mỗi người có một cái ghế bố và ngủ chung. Lúc ấy, chị khổ lắm”.

Chị muốn đi tìm Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng không biết đi tìm ở đâu cả. Chị hỏi một người đạp xích lô: “Cho tôi đi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma”. Người đó nói: Ở đây làm gì có, chỉ có một ông sư thầy trụ trì có tiếng ở trên núi thôi”. Chị đã quyết định đi tu, thế là chị tìm đến gặp nhà sư ấy. Ngài rất già rồi.

“Mà trên núi thiếu ô-xy, chị thở không nổi. Chị ngồi trong căn phòng nhỏ xíu. Vị sư bước vào, lấy ra cuốn sách rồi bắt đầu đọc kinh. Chị không hiểu gì cả, nhưng nước mắt cứ tuôn rơi. Chị khóc như chưa bao giờ được khóc”.

Mà lạ thay. Khi bước ra khỏi căn phòng nhỏ đó, chị thấy mình như con chim sổ lồng. Vị sư già đã giải thoát cho chị về mặt tinh thần.

Chị quyết định: Không đi tu nữa. Chị phải trở về Việt Nam.

Lạ kỳ thay, bảy giờ sáng, vừa về đến TP. Hồ Chí Minh, chị nhận tin: Giếng mới khoan đã có dầu. Chị ra Vũng Tàu, bay trực thăng ra giàn khoan. Ở đó, chị lại ôm mặt khóc. “Mười năm chờ đợi, cuối cùng cũng có kết quả”.

Ý chí và lòng tin

Ngày còn ở Mỹ, một người bạn từng bảo chị: “Cô thể nào cũng sẽ trở về quê hương, sẽ sống chết ở quê hương. Và tên hai đứa con trai cô sẽ đi vào lịch sử”.

Chị buồn cười quá. Hai đứa con của chị mới có 3–4 tuổi. Làm sao lại như vậy được?

Nhưng bao nhiêu năm qua, bây giờ nhìn lại thì chị mới nhận ra: Hai công ty của chị tên là Hoàng Long – Hoàng Vũ, tên hai con trai của chị. Trên mảnh đất quê hương, có hai giếng dầu mang tên của hai con chị. Và hai giếng ấy đúng là đã đi vào lịch sử khai thác dầu khí của Việt Nam.

Châm ngôn của Lệ Hằng Lizeroux: Sống là để cho đi

Chị Lệ Hằng Lizeroux đại diện trao tặng thư viện cho trường học

Giờ đây, chị đã là người phụ nữ rất thành công ở Việt Nam và được nhiều người kính trọng. Nhưng thành công không làm chị tự mãn. Ngược lại, chị bảo thấy mình may mắn và càng muốn cho đi nhiều hơn. “Chị quan niệm không phải cứ giàu mới làm từ thiện. Có một đồng thì cho một đồng. Đừng chờ đến khi giàu mới làm”.

Chị sáng lập Câu lạc bộ Open Arms, đến nay đã xây dựng được 19 thư viện cho học sinh ở khắp các tỉnh. “Chị ước mơ sẽ làm được 50 thư viện, mà chưa biết có kịp không”. Chị không nhớ mình đã đến những đâu làm từ thiện nữa, vì đã đi rất nhiều. Trong những chuyến đi ấy, chị không chỉ mang sách, máy tính, mà còn mời bác sĩ đi theo để khám chữa bệnh cho các em.

Đến giờ này, cứ mỗi khi nhớ lại những bà mẹ Việt Nam anh hùng mà mình đã gặp, chị vẫn còn rưng rưng:

“Có nhiều mẹ mất hết con. Có một lần khi chị về thăm, một mẹ nắm tay chị bảo: Nếu con gái tôi còn sống, nó cũng bằng tuổi cô. Nó chết rồi, ba đứa anh nó cũng chết. Lúc ấy, chị lại khóc, khóc không ngừng. Khi nhìn lại, chị thấy cuộc đời mình quá may mắn”.

Hỏi điều gì khiến chị tự hào nhất, chị cười hiền:

“Chị tâm đắc nhất là mình đã làm được điều gì đó cho đất nước. Đừng hỏi đất nước đã làm gì cho tôi, mà tôi đã làm gì cho đất nước. Và làm từ thiện bằng cái tâm. Nhỏ to không quan trọng. Hành động mới quan trọng”.

Câu lạc bộ Open Arms trong một chuyến đi từ thiện

Chia tay chị Lệ Hằng, tôi cứ vấn vương hoài. Tôi nghĩ đến người phụ nữ bước vào ngành dầu khí – lĩnh vực khốc liệt vốn được mặc định cho đàn ông – với hai bàn tay trắng, chờ mười năm đằng đẵng cho những giọt dầu. Những cống hiến của chị cho đất nước là vô giá.

Và trên hết, chị là tấm gương của sự chân thành, khiêm nhường, luôn cho đi, luôn tạo niềm vui cho người khác. Nói một cách văn vẻ, cuộc đời chị là bản hòa ca của nghị lực và lòng nhân ái, truyền cảm hứng về sự phấn đấu cho bao thế hệ phụ nữ Việt Nam.

Harper’s Bazaar Việt Nam 

Xem thêm