
Biên niên sử những chiếc vương miện xa hoa của Trung Hoa. Ảnh: Tiểu Hồng Thư
Trong phim cổ trang Trung Quốc, vương miện không chỉ là một phụ kiện, đó là ngôn ngữ quyền lực được viết bằng ngọc quý và nghi thức. Từ những ngọc ống thời văn hóa Hồng Sơn đến “núi trâm vàng” của các phi tần trong Hậu cung Chân Hoàn truyện, vương miện luôn đội lên đầu cả một thời đại, một hệ mỹ cảm và một niềm tin thiêng liêng về văn hóa. Thế gian có câu nói nổi tiếng: “Muốn đội vương miện, tất phải chịu lấy trọng trách”. Vương miện chính là biểu tượng của quyền lực, địa vị và đẳng cấp của nhân vật.
Từ đá ngọc thời Tân Thạch đại
Ngay từ thời Tân Thạch đại, con người đã biết chế tác những món trang sức đội đầu bằng ngọc, mang hình dạng ống dùng như pháp khí để tế trời đất. Trong mộ địa cao cấp của văn hóa Hồng Sơn (niên đại từ khoảng năm 4000-3000 Trước Công nguyên), người ta phát hiện những ngọc ống hình móng ngựa đặt ở vị trí đầu người chết. Nhiều học giả cho rằng, đó là quan miện của chủ mộ. Đến thời Hán, kiểu này thường gọi là Thông Thiên quan.
Ở phương Nam, miện quan mềm mại và uyển chuyển hơn: hình dẹt, trang trí sóng nước và lông vũ. Một số đầu quan còn có hoa văn lông vũ gọi là Vũ quan, người xưa tin rằng lông vũ giống như ngọc. Thời Tân Thạch đại, đầu quan là vật kết nối giữa người và trời đất, chỉ người được tôn kính hoặc liên kết với thần linh mới đội.

Vương miện hình bậc thang bằng ngọc. Ảnh: Weibo
Thời Chu và sự ra đời của vương miện
Theo Ngọc người và Bóng lục: Sử ký trang sức Trung Quốc của Vương Miêu, khi nhà Chu thiết lập hệ thống lễ nghi cực kỳ phức tạp, vương miện chính thức ra đời như biểu tượng phân định giai cấp. Chỉ thiên tử và quý tộc mới đội vương miện và số lượng xiềng ngọc (chuỗi hạt đung đưa trước trán) cũng tùy theo địa vị mà phân định.
Miện quan gồm miện bản với phần đỉnh bằng gỗ hoặc kim loại hình chữ nhật, trước tròn sau vuông, phía trước thấp sau cao tượng trưng cho vũ trụ quan cổ đại “trời tròn đất vuông”, người đội phải hành xử thuận thiên mệnh. Phía trước có treo chuỗi hạt ngọc, giúp người đội “thấy mà không nên nhìn”. Thiên tử đội 12 xiềng, quý tộc cấp thấp hơn thì ít hơn. Bên cạnh đó, hai bên miện còn có lỗ nhỏ để xuyên qua chốt ngọc cố định tóc và miện, cùng hai viên ngọc vàng, để nhắc nhở “nghe mà không vọng động”. Thiên tử dùng ngọc hoàng, cấp thấp hơn dùng ngọc lam.
Thời Xuân Thu – Chiến Quốc: Vương miện trở thành vũ khí
Khi trật tự sụp đổ và các chư hầu tự xưng vương, mũ đội đầu cũng trở nên lộng lẫy, kỳ dị, có khi mang hình các linh thú thần thoại như giải trãi, điểu… Mỗi vương quốc lại chế tạo một kiểu đầu quan riêng biệt, không chỉ để thể hiện bản sắc mà còn là vũ khí thị uy. Nước Sở dùng giải trãi vì linh vật này có khả năng phân biệt đúng sai.
Những kiểu mũ như Thông Thiên quan, Thiết Vân quan (nước Sở) hay Cự quan (nước Tề) được nâng cao đến mức phi thực tế. Người xưa tin rằng, “cao thì gần trời”, càng cao thì càng linh thiêng, càng dễ kết nối với thần minh.
Thời Tần – Hán: Thống nhất lễ nghi, miện phục được chuẩn hóa

Tạo hình nhà Tần trong phim Lệ Cơ truyện. Ảnh: Weibo
Sau khi nhà Tần thống nhất sáu nước, miện phục được định hình rõ rệt: Thiên tử và quan lại đội miện, dân thường thì chỉ được dùng khăn vấn. Đến thời Hán, hệ thống này hoàn chỉnh hơn với việc phân chia số lượng xiềng ngọc theo từng cấp bậc.
Điều thú vị là ở các vùng biên như Hung Nô, đầu quan lại mang phong cách hoàn toàn khác: rực rỡ, xa hoa, chạm khắc động vật thần thoại, ngựa, hổ, dê, gắn ngọc lục bảo, đại bàng bằng vàng (như lăng mộ A Lỗ Sài Đăng thuộc Hàng Cẩm Kỳ, Khu tự trị Nội Mông Cổ)… thể hiện thẩm mỹ vừa hoang dã vừa tinh xảo.
Ngụy – Tấn – Nam – Bắc triều: Văn hóa giao thoa, đầu quan rực rỡ
Giai đoạn này là sự pha trộn giữa văn hóa Hán và các tộc thiểu số phương Bắc. Đầu quan không còn rập khuôn mà trở nên linh hoạt hơn. Tộc Tiên Ti rất ưa chuộng việc đội mũ bộ dao, tuy đây là một kiểu thuộc hệ hình bộ dao, nhưng đã không còn là vật dụng dành riêng cho phụ nữ nữa, mà đã trở thành dạng mũ dành cho nam giới. Tại ngôi mộ số 2 thời Tiền Yên ở Phòng Thân, Bắc Phiếu, tỉnh Liêu Ninh, từng khai quật được chiếc mũ bộ dao có hình dáng trang trí như cây hoa. Trên mũ gắn những chiếc lá vàng, lắc lư theo từng bước chân.
Ngoài mũ bộ dao, trong các ngôi mộ cùng thời kỳ này còn từng phát hiện các loại mũ đội đầu làm từ chất liệu như xương, đồng, bạc… Tại ngôi mộ thời Tấn ở Lưu Long Câu, Bảo An Tự, huyện Nghĩa, Liêu Ninh, từng khai quật được chiếc mũ đội đầu bằng bạc, phía trên là hai móc cong dài 13cm, phần dưới là vòng tròn, kiểu dáng vô cùng độc đáo.
Thời Tùy – Đường: Vương miện trở thành biểu tượng của thời đại cực thịnh

Mũ nghi lễ thời Tùy đến thời Đường trưng bày tại Bảo tàng Đại Vận Hà Trung Quốc. Ảnh: Tiểu Hồng Thư
Thời Đường là giai đoạn hưng thịnh nhất của xã hội phong kiến Trung Hoa: xã hội ổn định, đời sống sung túc. Phụ nữ thời Đường chú trọng việc trang điểm và làm đẹp cho bản thân, đặc biệt là trang sức đầu, trong đó mũ đội đầu chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Kiểu dáng đa dạng, hoa văn tinh xảo, thể hiện rõ bầu không khí phồn hoa của một thời thịnh thế.
Trên các bức bích họa thời Tùy – Đường, dù là vương hậu, công chúa hay các mệnh phụ phu nhân có địa vị xã hội cao, phần đầu họ thường được trang trí bằng mũ đội đầu có hình chim phượng. Thật ra, mũ phượng (phụng quan) đã xuất hiện từ thời Hán, song lúc đó chưa có chế định rõ ràng. Một số mệnh phụ trong hoàng thất thường chỉ đội phụng quan tại các dịp tế lễ trang trọng. Đến thời Đường, phụng quan được các quý nữ, mệnh phụ sử dụng phổ biến trong các nghi lễ lớn, mang tính trọng đại.

Phụng quan của công chúa Lý Thùy (cháu đời thứ năm của Đường Cao Tổ Lý Uyên − hoàng đế khai quốc thời Đường) tại Viện Khảo cổ tỉnh Thiểm Tây. Ảnh: Tiểu Hồng Thư
Trong lăng mộ của công chúa Lý Thùy, cháu đời thứ năm của Đường Cao Tổ Lý Uyên, từng khai quật chiếc mũ đội đầu vô cùng lộng lẫy. Năm 2010, các chuyên gia bảo tồn và phục chế di vật văn hóa của Trung Quốc và Đức, sau một năm rưỡi nỗ lực, đã phục nguyên thành công chiếc mũ này. Mũ nặng hơn 800gr, cao 42cm, gồm hơn 380 bộ phận nhỏ. Chất liệu được sử dụng để chế tác mũ gồm có: ngọc lam, hổ phách, trân châu, hồng ngọc, thủy tinh, vỏ sò, mã não, vàng, bạc, đồng, sắt… Nhiều bộ phận vàng còn được trang trí thêm lông chim, gần như hội tụ đầy đủ mọi chất liệu trang sức có thể có thời Đường. Màu sắc rực rỡ, thể hiện sự xa hoa tột đỉnh.

Tạo hình quý tộc nhà Đường trong phim Cẩm Tú Phương Hoa. Ảnh: Weibo
Năm 2014, Viện Nghiên cứu Bảo tồn Di tích Văn hóa tỉnh Thiểm Tây cũng đã phục chế thành công một chiếc mũ đội đầu của quý phụ họ Bùi thời Đường. Theo quan điểm “Nhà Hán kế thừa chế độ Tần”, “Nhà Tống kế thừa chế độ Đường”, thì chiếc mũ này được coi là hình mẫu gốc cho phong cách mũ đội đầu của các triều đại hậu thế.
Thời Tống – Nguyên: Thanh thoát, trang nhã hơn, toát lên vẻ đẹp tao nhã khác biệt
Trong thời kỳ Tống, hình tượng nghệ thuật của phượng hoàng đã có những thay đổi rõ nét, gắn liền với quan niệm thẩm mỹ của người Tống: đề cao sự nhã nhặn, tinh tế, tránh phô trương, xa hoa quá mức như thời Đường. Một chiếc phụ kiện đầu hình phượng bằng bạc mạ vàng có niên đại nhà Tống, được khai quật vào năm 1974 từ kho báu dưới lòng đất ở Lục Gia Sơn, huyện Tinh Tử, tỉnh Giang Tây (nay là thành phố Lư Sơn).
Trâm cài là món trang sức dùng để cố định búi tóc hoặc gắn liền với mũ đội đầu. Kiểu dáng của trâm phụ thuộc vào phần đầu trâm (trâm thủ). Người Tống thường tạo hình trâm đầu theo hình động vật, thực vật hoặc thiết kế theo hình học rồi khảm thêm hoa văn trang trí. Chim phượng được khắc họa đầy sinh động, cho thấy trình độ chế tác kim hoàn thời Tống đã đạt đến mức điêu luyện.
Đến thời Nguyên, họa tiết phượng hoàng được khắc họa tinh tế hơn, vừa tuân thủ cấu trúc sinh học vừa đề cao yếu tố nghệ thuật. Thủ pháp thể hiện thuần thục, phối màu hài hòa, kỹ nghệ tinh xảo, mang vẻ đẹp xa hoa lộng lẫy và có giá trị nghệ thuật cao.
Thời Minh – Thanh: Phượng hoàng hiện đại ngày nay

Mũ ngũ phượng khảm ngọc bằng vàng thời Minh. Ảnh: Tiểu Hồng Thư
Sau thời Tống, hình tượng phượng hoàng trên vương miện dần được chuẩn hóa và quy định cụ thể: “Đầu như trĩ thêu, mào như ngọc như ý, mỏ giống vẹt, thân như uyên ương, cánh như đại bàng, chân như hạc tiên, lông như công”. Mô tả này gần như tương đồng với hình tượng phượng hoàng mà chúng ta biết ngày nay.

Phượng điền ngũ phượng điểm thúy khảm châu bảo triều Thanh. Ảnh: Tiểu Hồng Thư
Các họa tiết phượng hoàng thời Minh trên mũ phượng được chế tác sống động, mang vẻ đẹp tự nhiên chân thực. Kể cả chiếc trâm ngọc bích đi kèm, cũng được chạm khắc tinh tế, là phần trang trí gắn vào trâm chia ngôi, loại trâm được cài chính giữa búi tóc cao của phụ nữ quý tộc. Hình tượng phụng quan thời Thanh về cơ bản vẫn tiếp nối quy chuẩn từ thời Minh, không có sự khác biệt quá lớn.

Vương miện thời nhà Thanh điểm xuyết phượng hoàng và mẫu đơn, mạ bạc đính đá quý. Ảnh: Weibo
Hiện nay, nhiều tạo hình trong phim cổ trang xứ Trung phục dựng có chọn lọc từ lịch sử, có vương miện to, nhưng cũng có vương miện nhỏ, kiểu dáng kỳ dị như siêu vương miện cao 20cm hay kiểu bánh mì baguette.
Nhà làm phim có thể sáng tạo, miễn là đúng người, đúng thời điểm, đúng lịch sử, thì “núi trâm vàng” hay “mũ phượng” đều có thể trở thành biểu tượng đáng nhớ trong lòng khán giả. Giống như cách mà Hậu cung Chân Hoàn truyện, Như Ý truyện hay Bộ Bộ Kinh Tâm từng làm được: biến mỗi kiểu vương miện thành một phần ngôn ngữ thị giác giàu cảm xúc.

Phim Như Ý truyện lấy bối cảnh thời nhà Thanh. Ảnh: Weibo
VĂN HÓA TRUNG QUỐC:
TÌM HIỂU VỀ LỊCH SỬ NUÔI CẤY NGỌC TRAI BIỂU ĐÔNG QUA PHIM RÈM NGỌC CHÂU SA
TÀNG HẢI TRUYỆN, NGUYỆT LÂN Ỷ KỶ CHIẾU RỌI HÀO QUANG VÀO GẤM PHÙ QUANG
THỤC CẨM NHÂN GIA HỒI SINH SỰ QUAN TÂM ĐẾN DI SẢN GẤM THƯỢNG HẠNG
Harper’s Bazaar Việt Nam



